Sau khi Sở sụp đổ Mã_Hy_Sùng

Lý Cảnh cho Biên Hạo làm Vũ An tiết độ sứ, Biên Hạo lệnh cho Mã Hy Sùng đem gia tộc họ Mã đến kinh thành Kim Lăng của Nam Đường. Mã tộc họp tộc đều khóc lóc, muốn hối lộ nhiều cho Biên Hạo, xin được ở lại Trường Sa. Tuy nhiên Biên Hạo nói: "Quốc gia [Nam Đường] và Công gia [Sở] truyền thế là kẻ thù đã 60 năm, song chưa từng dám có ý dòm ngó nước của Công. Nay huynh đệ Công đấu đá lẫn nhau, khốn cùng mà tự quy thuộc. Nếu các vị khôi phục được hai ba phần, sợ rằng có mối lo bất trắc.[1]

Mã Hy Sùng không ứng phó được, đến ngày Tân Dậu (3) tháng 11, tức 4 tháng 12, Mã Hy Sùng cùng tông tộc và tướng tá tổng cộng hơn một nghìn người đau buồn xuống tàu, tiếng khóc vang vọng núi sông. Mã Hy Ngạc sau đó cũng bị triệu đến Kim Lăng. Hoàng đế Nam Đường cho Mã Hy Sùng làm Vĩnh Thái [c 7] tiết độ sứ, kiêm Thị trung, trấn thủ Thư châu (舒州).[1]

Sau đó, Mã Hy Sùng và gia đình được cho đến cư trú tại Dương châu[c 8].[3] Năm 956, Hậu Chu tấn công Nam Đường, Dương châu thất thủ trước quân Hậu Chu. Hoàng đế Quách Vinh của Hậu Chu ra chiếu an ủi vỗ về Mã Hy Sùng (cùng với Vương Kế Nghi-con của cựu hoàng nước Mân là Vương Diên Chính). Mã Hy Sùng dâng thiếp là Dương thị cho tướng Hậu Chu là Hàn Lệnh Khôn (韓令坤).[7] Đến khi quân Hậu Chu rút đi, Mã Hy Sùng đem 17 huynh đệ đến thủ đô Đại Lương của Hậu Chu, được phong chức là Hữu vũ lâm thống quân.[8]